Nghiên cứu bệnh do vi bào tử trùng gây ra trên tôm nuôi nước lợ
08/08/19 02:06PM
Thủy sản

Tên đề tài: Nghiên cứu bệnh do vi bào tử trùng gây ra trên tôm nuôi nước lợ

Tổ chức chủ trì: Phân viện Thú y miền Trung

Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chủ nhiệm đề tài: TS. Vũ Khắc Hùng

Các cá nhân tham gia đề tài: TS. Nguyễn Văn Duy, TS. Nguyễn Văn Thoại, ThS. Phạm Trung Hiếu, TS. Nguyễn Thị Sâm, ThS. Huỳnh Vũ Vỹ, ThS. Lê Nhã Uyên, TS. Phạm Thu Thủy, ThS. Nguyễn Thị Chính, TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy, ThS. Nguyễn Thị Thùy Giang

Thời gian thực hiện: 01/2016-12/2017

Kinh phí thực hiện: 1.500 triệu đồng

Cấp phê duyệt: Quyết định 3739/QĐ-BNN-TCTS ngày 26 tháng 09 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Ngày phê duyệt: ngày 04 tháng 10 năm 2018 tại Phân viện Thú y miền Trung

 

Kết quả nghiên cứu:

Nghiên cứu đã xác định tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng trên 371 tôm nuôi là: Ninh Thuận 29,81% (48/161), Bạc Liêu 3,85% (4/104), Kiên Giang 2,83% (3/106). Ngoài ra, kết quả xét nghiệm cho thấy 38/60 mẫu sinh vật phù du và 9/15 mẫu cá dương tính với EHP. Giải trình tự xác định loài vi bào tử trùng gây bệnh trên tôm là Enterocytozoon hepatonaei (EHP). Tất cả các chủng đều tương đồng 100% khi so sánh độ tương đồng nucleotide của mẫu với nhau. Đã xây dựng quy trình chẩn đoán bệnh do vi bào tử trùng EHP trên tôm nuôi nước lợ được công nhận Tiến bộ Kỹ thuật.

Kết quả PCR khi kiểm tra mối liên quan của bệnh do EHP và bệnh do các loại virut khác gây ra cho thấy: khi bị nhiễm EHP, tôm nuôi có khả năng cao sẽ bị bội nhiễm cùng với virut IHHNV, ngoài ra còn có thê gặp WSSV. Kết quả mô bệnh học cho thấy có nhiều khối khu trú của vi bào tử trong khối gan tụy và cơ tôm. EHP truyền được từ tôm nhiễm bệnh sang tôm khỏe mạnh theo đường truyền ngang, đồng thời tôm mẹ có thể truyền EHP sang ấu trùng tôm con từ giai đoạn Nauplius theo đường truyền dọc.

Xây dựng quy trình phòng chống bệnh do vi bào tử trùng EHP trên tôm nuôi nước lợ và thử nghiệm quy trình phòng trống bệnh do vi bảo tử trùng khi kết hợp sản phẩm Proxitane 12:20 trên ao nuôi ngoài thực địa.

 

(Nguồn: Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT-DT20195512-14)