Tên đề tài: Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ sâu bệnh hại nấm ăn, nấm dược liệu chủ lực
Thuộc Dự
án Khoa học và công
nghệ"Nghiên cứu chọn tạo giống và
công nghệ sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu quy mô công nghiệp"
Thuộc Chương
trình Phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020 "Sản phẩm nấm ăn và nấm
dược liệu"
Tổ chức chủ trì: Viện
Bảo vệ thực vật-
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Chủ nhiệm đề tài: ThS.
Vũ Thị Phương Bình
Các cá nhân tham gia đề tài: ThS. Lê Thu Hiền;
ThS. Hà Minh Thanh; TS. Đào Thị Hằng; ThS. Nguyễn Thị Thanh Hiền; ThS. Trần Ngọc
Khánh; ThS. Lê Đình Thao; KS. Nguyễn Đức Việt; ThS. Vũ Thị Thuỳ Trang; TS. Cồ
Thị Thuỳ Vân
Thời gian thực hiện: 2017-2021
Kinh
phí thực hiện: 5.100
triệu đồng
Cấp
phê duyệt: Quyết
định số 4130/QĐ-BNN-KHCN ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Ngày
nghiệm thu: ngày
30 tháng 10 năm 2021 tại Hà Nội
Kết
quả nghiên cứu:
Đề tài đã điều
tra, đánh giá hiện trạng sâu, bệnh hại và công tác phòng trừ dịch hại trên nấm
ăn và nấm dược liệu chủ lực (nấm rơm, sò, mỡ, mộc nhĩ, đùi gà và linh chi) tai
các tỉnh Hà Nam, Quảng Ninh, Đồng Nai, An Giang và Lâm Đồng. Đồng thời, xác
định thành phần sâu, bệnh hại trên nấm ăn và nấm dược liệu, trong đó: Nhóm nấm
gây bệnh mốc xanh (Trichoderma spp., Penicillium spp., Aspergillus spp.), ruồi
Bradysia ocellaris, ruồi Scatopsidae sp., Cecidomyiidae sp. nhện Tyrophalus
spp., Luciaphorus sp., là những sinh vật gây hại chính cho nấm ăn và nấm dược
liệu (rơm, sò, mỡ, đùi gà, mộc nhĩ và linh chi).
Đề tài đã thực hiện
các nghiên cứu sinh học và sinh thái học nhóm sinh vật gây hại chính như nhóm bệnh mốc xanh, Loài ruồi Bradysia ocellaris, loài ruồi
Scatopsidae, nhện trứng Luciaphorus sp... Đồng thời, nghiên cứu các biện
pháp quản lý một số đối tượng sinh vật gây hại chính trên nấm ăn và nấm dược liệu
chủ lực.
Nghiên cứu đã hoàn
thiện 06 quy trình quản lý tổng hợp sinh vật gây hại chính trên nấm ăn và nấm
dược liệu và xây dựng 06 mô hình quản lý tổng hợp sinh vật gây hại chính trên nấm
ăn và nấm dược liệu chủ lực tại các vùng trồng nấm Ha Nam, Quang Ninh, Đồng
Nai, Lâm Đồng va Sóc Trang: quy mô 1000m2 với nấm rơm và nấm mỡ, 5000
bịch/mỗi loại nấm sò, mộc nhĩ, đùi gà và linh chi. Các mô hình đạt hiệu quả
phòng trừ 80,2-85,9% và tăng hiệu quả kinh tế 15,5-24,2% so với đối chứng.
(Nguồn: Thư viện Bộ
Nông nghiệp và PTNT- DT20226220-22/GGN 21-11-069)