Nghiên cứu đánh giá nguồn lợi sứa vùng ven biển Việt Nam, đề xuất giải pháp khai thác và bảo vệ
08/09/14 11:01AM
Chủ đề: Thủy sản

Tên đề tài: Nghiên cứu đánh giá nguồn lợi sứa vùng ven biển Việt Nam, đề xuất giải pháp khai thác và bảo vệ

Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu hải sản

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Dương Thạo

Thời gian thực hiện đề tài: 2009-2011

 

Kết quả nghiên cứu:

 

          Thành phần khu hệ sứa ở vùng ven biển Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Đã thống kê được 128 loài sứa với 4 loài sứa kinh tế quan trọng là sứa trắng (Rhopilema hispidum), sứa đỏ (Rhopilema esculentum), sứa rô (Crambione mastigophora) vá sứa Lobonema smithii. Đã bổ sung mới 1 họ, 3 giống, 7 loài; trong đó có 1 họ, 2 giống, 2 loài sứa kinh tế vào danh sách thành phần sứa biển Việt Nam.

          Mật độ sứa kinh tế phong phú nhất ở vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ, tiếp đến là vùng ven biển Trung Bộ, vùng ven biển Tây Nam Bộ và thấp nhất ở vùng ven biển Đông Nam Bộ. Mật độ sứa trắng, sứa đỏ và sứa L. smithiii có xu thế giảm dần từ bờ ra khơi; sứa rô có mật độ tương đối đồng đều trong các dải độ sâu.

          Trữ lượng sứa kinh tế biến động khá lớn trong thời gian điều tra. Tổng trữ lượng sứa kinh tế ở bốn vùng ven biển Việt Nam ước khoảng 1.048.040 tấn. Sứa trắng là thành phàn chủ yếu với trữ lượng ước khoảng 986.880 tấn. Mùa vụ của sứa trắng thường từ tháng 1 đến tháng 7, sứa đỏ thường từ tháng 2 đến tháng 6, sứa rô thường từ tháng 4 đến tháng 8, sứa L. smithii thường từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau.

          Khả năng khai thác nguồn lợi sứa kinh tế ở vùng ven biển Việt Nam ước khoảng 733.600 tấn; trong đó ngư trường trọng điểm là vùng ven biển phía tây Vịnh Bắc Bộ, vùng ven biển Trung Bộ, vùng ven biển Đông Nam Bộ và vùng ven biển Tây Nam Bộ. Khả năng khai thác của sứa trắng ước khoảng 690.800 tấn, sứa L. smithii 31.700 tấn, sứa rô 6.400 tấn và sứa đỏ 4.700 tấn.

          Đã xác định được 4 yếu tố sinh thái của môi trường có liên quan từ tương đối mật thiết đến mật thiết với nguồn lợi sứa biển; đó là nhiệt độ không khí, nhiệt độ nước biển, độ muối nước biển và só lượng động vật phù du.

          Tàu khai thác sứa có kích thước nhỏ và lắp máy < 90CV, trang thiết bị phục vụ khai thác thiếu, thời gian chuyến biển thường chỉ 1 ngày. Ngư cụ khai thác sứa chủ yếu là lưới kéo, lưới đáy, vợt và lưới rê. Ngư cụ khai thác sứa thường đơn giản, hầu hết kích thước mắt lưới phù hợp với quy định bảo vệ nguồn lợi hải sản.

          Xác định được ba loài sứa gây ngứa thường xuất hiện ở các bãi toắm ven biển Việt nam vào mùa du lịch là Chrysaora hevola, Chrysaora sp và Olindias sp.

(Nguồn: Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT-DT20101391)