Tên đề tài: Nghiên cứu đề xuất chính sách, giải pháp thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất-tiêu thụ sản phẩm trong trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản
Tổ
chức chủ trì: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Cơ
quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chủ
nhiệm đề tài: PGS. TS. Lê Hữu Ảnh
Các
cá nhân tham gia đề tài: PGS. TS. Trần Hữu Cường, TS. Nguyễn
Quốc Chỉnh, TS. Nguyễn Thị Thủy, PGS. TS. Nguyễn Văn Song, TS. Chu Thị Kim
Loan, TS. Đỗ Quang Giám, TS. Bùi Thị Nga, TS. Nguyễn Quốc Oánh, PGS. TS. Bùi
Văn Trịnh.
Thời
gian thực hiện: 1/2016-6/2017
Kinh
phí thực hiện: 1.600 triệu đồng
Cấp
phê duyệt: Quyết định số 3419/QĐ-BNN-KHCN ngày 17
tháng 8 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ngày
phê duyệt: Họp ngày 06 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội
Kết
quả nghiên cứu:
Nghiên
cứu đưa ra các điểm chủ yếu về cơ sở lý luận về hợp tác và liên kết. Hợp tác và
liên kết gắn bó với nhau theo các hình thức đa dạng, phong phú của thực tiễn
tùy mức độ phát triển của các quan hệ. Trong điều kiện Việt Nam, chính sách
(công) gắn liền với đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng. Văn bản thể hiện
chính sách bao gồm các định hướng từ các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, các văn
bản quy phạm pháp luật của Chính phủ (trung ương và địa phương).
Đề
tài chỉ ra mức độ hợp tác trong các ngành hàng nghiên cứu rất yếu ở khâu sản xuất:
số hợp tác xã quá ít, quy mô rất nhỏ, không tạo được vai trò đầu mối cho liên kết
giữa hộ với doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở khâu chế biến-xuất khẩu của các ngành
hàng này đều đã hình thành được kiểu hợp tác có quốc gia với vai trò chủ yếu là
doanh nghiệp nhà nước (Hiệp hội ngành hàng quốc gia). Các mô hình hợp đồng sản
xuất giữa chế biến với hộ nông dân chủ yếu ở kiểu phi liên kết (không chính thức)
qua thương nhân. Phân tích tài chính các chuỗi ngành hàng cho thấy các hộ có
quan hệ hợp tác/ liên kết đều đã đạt được khả năng nhất định về năng lực tài
chính (đều có đầu tư để có chi phí tạo giá trị gia tăng) là do hộp hoặc thấy lợi
ích của đầu tư hoặc do được sử đầu tư doanh nghiệp trong liên kết. Về thực trạng
các chính sách liên quan đến hợp tác và liên kết trong các ngành hàng ngày càng
hoàn thiện qua quá trình sửa đổi.
Nhìn
trên phương diện chính sách và giải pháp, nông nghiệp Việt Nam đã được định hướng
phát triển 30 năm qua theo sát các chủ trương đổi mới kinh té. Hợp tác và liên
kết trong kinh tế nói chung, trong nông nghiệp nói riêng đã có kết quả phát triển
đáng kể.
Kiến
nghị hai thành phần liên quan đến phân bổ nguồn lực trong hợp tác và liên kết
và tăng hiệu quả, tăng hiệu lực thực thi chính sách giải pháp phát triển hợp
tác và liên kết với 8 nội dung (giải quyết xung đột giữa các mục tiêu chính
sách; tăng cường ngăn lực thực thi thị trường qua hợp tác và liên kết sản xuất-tiêu
thụ trong các ngành hàng nông nghiệp; tiếp tục từng bước giải quyết các vấn đề
chinh sách đất đai; thu hút đầu tư và phát triển công nghệ; giải quyết lao động
nông thôn và nghiên cứu đổi mới trong nông nghiệp; cải thiện thể chế về hợp tác
và liên kết; phát triển bển vững trong hợp tác và liên kết; hoàn thiện công cụ
bảo đảm và hỗ trợ trong hợp tác và liên kết) nhằm phát triển hợp tác, liên kết
sản xuất-tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đề tài đề xuất hoàn thiện, bổ sung
chính sách hợp tác, liên kết trong trồng
trọt, lâm nghiệp và thủy sản của các ngành hàng đã nghiên cứu
(Nguồn:
Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT-DT20175293-94)