Đặc biệt, 500ha nương sả, thu hoạch chiết xuất tinh dầu đạt 58.170 lít, giá trị ước đạt trên 17 tỷ đồng năm 2019. Dưới tán rừng, Nhân dân trồng 857ha cây thảo quả. Đồng thời, trồng các loại cây dược liệu như: tam thất, sa nhân với diện tích hơn 205ha.
Tận dụng bãi chăn thả rộng, bà con trồng thêm cỏ voi, xây dựng chuồng trại chăn nuôi đại gia súc. Đã hình thành trang trại chăn nuôi quy mô từ 50 - 150 con gia súc. Hiện nay, tổng đàn gia súc của xã đạt 1.848 con, đàn gia cầm gần 9.000 con. Từ hơn 9.000ha rừng được bảo vệ, tỷ lệ che phủ đạt 81,80%, năm 2019, gần 10 tỷ đồng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng được cấp phát tới người dân.
Theo số liệu thống kê của xã, đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ hộ nghèo của xã chiếm 25,6%, thu nhập đạt 33 triệu đồng/người/năm. Anh Phùng Lòng Kà – Chủ tịch UBND xã khẳng định: Có được kết quả trên là sự chung tay, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong xã. Xã sẽ tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp đẩy mạnh công tác giảm nghèo; duy trì và phát huy những kết quả đạt được; tuyên dương, nhân rộng gương điển hình tiên tiến.
Thức dậy Đông hồ
Mươi, mười lăm năm về trước nói đến vùng Đông hồ Thác Bà, huyện Yên Bình (Yên Bái) là nói tới một vùng quê nghèo khó, nơi người dân chật vật bươn chải với nương đồi, sông nước. Còn giờ đây, Đông hồ đang chuyển mình trong đổi mới với khát vọng vươn lên thoát nghèo, xây dựng quê hương giàu đẹp.
Những năm 2000, khi tuyến đường Yên Thế - Vĩnh Kiên được đưa vào khai thác, nhiều người dân sống dọc con đường không giấu nổi niềm vui khi giao thương thuận lợi, mở ra cơ hội giao lưu phát triển kinh tế - xã hội.
Các địa phương từ Vĩnh Kiên, Yên Bình đến Bạch Hà, Vũ Linh hay Phúc An… cũng xác định, đây là điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nên hàng năm, cấp ủy, chính quyền các xã đã chủ động trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch cả về diện tích, năng xuất, sản lượng; tập trung phát triển vùng cây ăn quả có múi, vùng chè nguyên liệu, vùng trọng điểm sản xuất thâm canh lúa, phát triển thủy sản hồ Thác Bà, chăn nuôi gia súc… Bởi thế mà giờ đây khu vực trung tâm các xã dọc tuyến đường đã hình thành những cụm dân cư đông đúc, kinh tế phát triển.
Đồng chí Trần Tiến Thơm - Chủ tịch UBND xã Phúc An chia sẻ: "So với những năm trước, mấy năm nay, bộ mặt nông thôn của Phúc An đã thay đổi rất nhiều. Mặc dù vẫn là xã đặc biệt khó khăn, nhưng đến nay Phúc An đã có 12/19 tiêu chí của xã nông thôn mới, tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm 11,05%”.
Ở Phúc An, có đến 70% dân số là người dân tộc Dao, Cao Lan, trình độ dân trí không đồng đều, nguồn thu nhập chính vẫn dựa vào rừng và đánh bắt thủy sản trên hồ, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Tiềm năng thì có nhiều nhưng chưa thể khai thác.
Chậm rãi khua mái chèo sang vườn bưởi của gia đình, lão nông Nguyễn Xuân Lộc ở thôn Đồng Tý hồ hởi giới thiệu thành quả của 6 năm bới đất, lật cỏ chăm sóc cho 1,8 ha cây ăn quả với 400 gốc bưởi Diễn, da xanh, Đại Minh của gia đình.
Ông Lộc cho biết: "Mảnh đất này tôi đã trồng đủ loại cây từ cà phê, đến bạch đàn nhưng đến giờ cây bưởi cho thu hoạch thì đây là loại cây đem lại giá trị kinh tế cao nhất. Số tiền lãi của vụ bưởi năm nay tôi dự định tiếp tục đầu tư vào vườn bưởi”.
Ý chí vươn lên cùng sự đầu tư của Nhà nước về hạ tầng kỹ thuật, về các dự án phát triển sản xuất với những mô hình chuyên canh, phát triển chăn nuôi hàng hóa… đã giúp nông thôn Phúc An đổi mới. Bên cạnh phát triển cây lâm nghiệp, chăn nuôi, trồng rau màu… Phúc An đã có 15,6 ha cây ăn quả.
Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Kiên Vũ Thành Vinh cho biết: "Với tư duy đổi mới về lãnh đạo kinh tế, Đảng bộ đã thường xuyên quan tâm và tăng cường sự lãnh đạo, do vậy, trong những năm gần đây, các chỉ tiêu về phát triển kinh tế của Vĩnh Kiên luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Tân Lạc chuyển dịch từ trồng ngô lấy hạt sang ngô sinh khối
Ở vài vụ sản xuất gần đây, thay vì trồng ngô lấy hạt theo cách truyền thống, một số diện tích được người dân ở các huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Mai Châu (Hòa Bình) chuyển đổi sang trồng ngô sinh khối. Với 2 vụ/năm, thường thì ở vụ hè thu, diện tích trồng ngô sinh khối chủ yếu đáp ứng nhu cầu thu mua của các đơn vị tỉnh ngoài. Vụ đông xuân, bà con giữ lại hầu hết diện tích để phục vụ chăn nuôi.
Điều đáng nói là trồng ngô sinh khối, thời vụ được rút ngắn hơn, giá trị thu nhập tương đương so với trồng ngô lấy hạt. Tân Lạc là một trong những địa phương chuyển đổi sang trồng ngô sinh khối khá mạnh.
Hộ chăn nuôi các huyện Tân lạc đang chuyển dịch trồng ngô sinh khối phục vụ chăn nuôi ở vụ đông. Ảnh: Báo Hòa Bình
Ông Bùi Văn Tương ở xóm Mí, xã Bắc Sơn vừa thu hoạch xong 7.000 m2 ngô sinh khối. Thương lái từ Mộc Châu (Sơn La) về xóm thu mua và xử lý, chế biến cả cây gồm phần thân, lá, bắp non thành thức ăn chăn nuôi phục vụ các trang trại nuôi bò sữa chất lượng cao. Ông Tương cho biết: Trước đây, tôi trồng ngô hạt, năng suất cũng khá, nhưng từ khi chuyển sang trồng sinh khối, thời gian thu hoạch được rút ngắn đi. Vụ vừa rồi, tôi thu 11 tấn sinh khối, bán tại ruộng với giá 10.000 đồng - 12.000 đồng/yến, mang lại thu nhập hơn chục triệu đồng. Một mặt, tôi để dành theo khoảng và trồng thêm ngô gieo dày để phục vụ sản xuất chăn nuôi của gia đình. Với đàn gia súc lớn, thân, lá ngô là nguồn thức ăn xanh nhiều dinh dưỡng.
Theo anh Đinh Văn Oan, Trưởng xóm Mí, người dân xóm Mí đã bắt đầu chuyển đổi trồng ngô sinh khối kể từ năm 2017 đến nay. Hiện, có 65 hộ tham gia trồng với tổng diện tích khoảng 15 ha. Nếu ở vụ hè thu, toàn bộ diện tích đều được trồng hàng hóa để bán cho chăn nuôi khu vực tỉnh bạn thì ở vụ đông, phần lớn diện tích được bà con trong xóm giữ lại làm thức ăn cho đàn vật nuôi. Trong điều kiện vùng cao khắc nghiệt, việc lựa chọn cây ngô gieo dầy, ngô sinh khối để đảm bảo nguồn thức ăn cho trâu, bò trong những ngày mưa rét được các hộ chú trọng.
Với xã Địch Giáo, kể từ vụ đông 2019, tận dụng lợi thế về đồng đất bãi, bà con nông dân bước đầu thực hiện thí điểm trồng 5 ha ngô sinh khối. Anh Bùi Thanh Tùng, công chức Địa chính - Nông nghiệp xã cho biết: UBND xã đã tuyên truyền, vận động nông dân trồng ngô đông với tổng diện tích 24 ha. Diện tích này bao gồm cả trồng ngô lấy hạt và sinh khối làm nguồn thức ăn cho gia súc. Công tác tuyên truyền, vận động chuyển đổi, tận dụng diện tích đất bãi màu trồng ngô được bà con các xóm tích cực hưởng ứng, nhất là ở một số xóm như Kem, Kha Lạ... Cách làm này cũng góp phần gia tăng giá trị kinh tế đối với cây ngô, đảm bảo nguồn lương thực dự trữ quanh năm cho đàn gia súc.
Vấn đề đặt ra hiện nay là trồng ngô sinh khối để bán cho thị trường hàng hóa đang chỉ dừng lại ở mức độ tự phát. Người dân chưa thực sự yên tâm về đầu ra bởi không có liên kết sản xuất và tiêu thụ, không có hợp đồng giao dịch mua bán, bao tiêu. Các xã có diện tích trồng ngô sinh khối tập trung gồm Địch Giáo, Lũng Vân, Bắc Sơn, Phú Vinh, Phú Cường... Đồng chí Vũ Quang Hùng, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện cho rằng, điều quan trọng qua thực hiện chuyển đổi mô hình này là nâng cao nhận thức của người dân trong việc đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng thời, ý thức chủ động nguồn thức ăn dự trữ cho đàn gia súc ở vụ đông được nâng lên rõ rệt. Về đầu ra, trong trường hợp ngô sinh khối bấp bênh tiêu thụ, sản xuất của người dân không bị ảnh hưởng nhiều vì vẫn cho thu hạt.
Tổng đàn trâu, bò hiện có toàn huyện khoảng trên 26.000 con. Ở vụ đông, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, ngoài lượng rơm rạ gom được sau thu hoạch lúa mùa thì diện tích ngô, mía là nguồn thức ăn chăn nuôi dự trữ chiếm tỷ trọng lớn. Bên cạnh diện tích cỏ voi, cỏ VA06 khoảng hơn 50 ha, vụ đông này, toàn huyện trồng trên 1.100 ha ngô, trong đó, diện tích ngô sinh khối, ngô gieo dày phục vụ nhu cầu chăn nuôi của các hộ khoảng 200 ha.