Điều tra hiện trạng sử dụng phế phụ phẩm trong công nghiệp chế biến một số sản phẩm thủy sản chủ lực quốc gia (tôm nước lợ, cá tra), đề xuất giải pháp nâng cao GTGT, phát triển kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực chế biến thủy sản
27/11/24 09:03AM
Chủ đề: Chế biến

Tên nhiệm vụ: Điều tra hiện trạng sử dụng phế phụ phẩm trong công nghiệp chế biến một số sản phẩm thủy sản chủ lực quốc gia (tôm nước lợ, cá tra), đề xuất giải pháp nâng cao GTGT, phát triển kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực chế biến thủy sản

Tổ chức chủ trì: Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường

Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Cao Đăng Đáng

Các cá nhân tham gia nhiệm vụ: TS. Lê Đức Thông, TS. Lê Hà Hải, GS.TS. Phạm Anh Tuấn, TS. Nguyễn Tất Thắng

Thời gian thực hiện: 2021-2024

Kinh phí thực hiện: 1.500 triệu đồng

Cấp phê duyệt: Quyết định số 192/QĐ-CCPT-CBBQ ngày 18 tháng 6 năm 2024 của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường

Ngày nghiệm thu: 26 tháng 6 năm 2024 tại Hà Nội

Kết quả nghiên cứu:

Tổng quan hiện trạng chế biến và tiêu thụ tôm nước lợ, cá tra. Đối với mặt hàng tôm gồm tôm tươi/hấp (nguyên con hoặc bỏ đầu) đông lạnh, tôm nõn tươi/hấp đông lạnh, tôm tẩm bột chiên hoặc không chiên đông lạnh, sushi, nobashi;… trong đó số cơ sở chế biến tôm đông lạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đông Nam Bộ (ĐNB) chiếm đến 85,4% so với cả nước, về số lượng tôm nguyên liệu đưa vào chế biến có chiều hướng tăng trong 3 năm 2019, 2020 và 2021 biến động khoảng 4,3-6%, sản lượng sản phẩm cũng tăng tương ứng từ 2,0-4%. Đối với mặt hàng cá tra: gồm cá tra fillet đông lạnh, cá tra cắt miếng hoặc fillet tẩm bột, cá tra tẩm gia vị, chả cá tra…; tổng số doanh nghiệp chế biến cá tra quy mô lớn cả nước có khoảng 107 doanh nghiệp trong đó có gần 100 nhà máy tập trung chủ yếu ở ĐBSCL chiếm khoảng 93,5% so với cả nước; số lượng cá tra nguyên liệu đưa vào chế biến có chiều hướng giảm nhưng không lớn trong 3 năm 2019, 2020 và 2021 biến động giảm từ 0,3 – 1,6%; định mức nguyên liệu cá tra/sản phẩm trung bình khoảng 2,0 kg nguyên liệu/1kg sản phẩm; 100% các doanh nghiệp chế biến cá tra áp dụng ít nhất 1 hệ thống quản lý chất lượng và có hệ thống xử lý chất thải; trình độ lao động của các cơ sở chế biến cá tra có trình độ trung cấp trở lên đạt 13%, công nhân kỹ thuật có bằng cấp chỉ 9% và lao động phổ thông vẫn chiếm tỷ lệ cao 78%. Các sản phẩm tôm Việt Nam đã xuất khẩu đến khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, thị trường nhập khẩu lớn nhất của các sản phẩm tôm gồm: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kong, Hàn Quốc và Úc. Hiện nay, các sản phẩm cá tra đã có mặt tại 138 quốc gai và vùng lãnh thổ. các thị trường chính gồm: Trung Quốc-Hong Kong, Mỹ, ASEAN, EU, Anh, Mexico, Brazil và Colombia, chiếm 80,4% tổng giá trị xuất khẩu.

Kết quả điều tra các doanh nghiệp chế biến phụ phẩm tôm, các tra cho thấy sản lượng trung bình phụ phẩm tôm được chế biến công nghiệp đạt 32,3%; sản lượng trung bình phụ phẩm cá được chế biến công nghiệp đạt 32,0%. Sản phẩm chế biến từ phụ phẩm tôm và phụ phẩm cá tra chủ yếu tiêu thụ trong nước chiếm 80 - 90%, đạt doanh số năm 2021 khoảng 3.940 tỷ đồng và 11.535 tỷ đồng lần lượt đối với các sản phẩm từ phụ phẩm tôm và cá tra. Xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm tôm, cá tra chiểm tỷ lệ thấp 10 -20%. Thị trường xuất khẩu sản phẩm chế biến từ phụ phẩm tôm, các tra chủ yếu là các nước châu Á (Trung Quốc, Thái Lan).

Đề xuất giải pháp đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, kết nối chuỗi cung ứng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chế biến từ phụ phẩm (tôm nước lợ, cá tra), cụ thể cần rà soát quy hoạch cơ sở hạ tầng đồng bộ đáp ứng điều kiện sản xuất mở rộng phát triển ngành chế biến chính phẩm và phụ phẩm (tôm nước lợ và cá tra) phù hợp với đinh hướng phát triển của từng vùng/khu vực và địa phương. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cung ứng (thu gom, phân loại, sơ chế bảo quản và phân phối) nguyên liệu phụ phẩm cho các nhà máy chế biến phụ phẩm (tôm nước lợ, cá tra). Hình thành hệ sinh thái kết nối các doanh nghiệp cung ứng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chế biến từ phụ phẩm (tôm nước lợ, cá tra). Tổ chức quản lý cần xây dựng các cụm liên kết gắn chế biến và tiêu thụ phế phụ phẩm tôm và cá tra gắn với vùng sản xuất tập trung phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, đề án và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của vùng/địa phương. Đồng thời rà soát những chính sách chung đã ban hành và tiếp tục bố sung hoàn thiện chính sách mới phù hợp với đặc thù của ngành hàng phụ phẩm (tôm nước lợ và cá tra) nhằm thúc đẩy và huy động tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp; và ưu tiên nguồn lực về khoa học công nghệ, lồng ghép các chương trình khoa học công nghệ các cấp từ trung ương đến địa phương nhằm đổi mới công nghệ nhằm đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị, tính cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng phụ phẩm (tôm nước lợ và cá tra).

(Nguồn: Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT - DT20247759-60/GGN24-08-139)