Tên nhiệm vụ: Nghiên cứu chọn giống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nâng cao sinh trưởng
Tổ chức chủ trì: Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II
Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Nguyễn Đinh Hùng
Các cá nhân tham gia nhiệm vụ: ThS. Trần Hữu Phúc, TS. Nguyễn Văn Sáng,
KS. Võ Thị Hồng Thắm, ThS. Nguyễn Thanh Vũ, KS. Nguyễn Huỳnh Duy, KS. Phạm Đăng
Khoa, KS. Nguyễn Thế Vương, ThS. Đặng Văn Trường, ThS. Nguyễn Thị Đang
Thời gian thực hiện: 2019-2022
Kinh phí thực hiện: 4.800 triệu đồng
Cấp phê duyệt: Quyết định số 3517/QĐ-BNN-KHCN ngày
07 tháng 02 năm 2022 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Nghiệm thu: ngày 11 tháng 11 năm 2022 tại Hà Nội
Kết quả nghiên cứu:
Đề tài đã ương nuôi,
tuyển lựa và chuyển giao thành công 5.000 con cá hậu bị, kích cỡ khi chuyển
giao đạt dao động 1,0-1,2 kg/con, tỷ lệ đực:cái khi chuyển giao là 35%:65%
(trong đó, cá đực và cá cái thuộc hai nhóm cá có huyết thống xa nhau), cá được
đánh dấu DCWT khi chuyển giao. Ba đơn vị tiếp nhận 5.000 cá hậu bị là Công ty
TNHH Thủy sản Mừng Liên (Lấp Vò, Đồng Tháp) tiếp nhận 2.000 con, cơ sở Thành
Kim (Cao Lãnh, Đồng Tháp) tiếp nhận 1.500 con và cơ sở Trung Dũng (Hồng Ngự, Đồng
Tháp) tiếp nhận 1.500 con. Đàn cá đang được nuôi tăng trưởng trong cùng một ao
tại mỗi cơ sở. Đến thời điểm báo cáo (8/6/2022) đàn cá phát triển tốt, tỷ lệ sống
đạt trung bình là 96,0%, kích cỡ trung bình đạt 3,8 – 5,2 kg/con và đã bước đầu
khai thác cho sản xuất cá bột với các chỉ tiêu về sinh sản đều đạt cao hơn yêu
cầu kỹ thuật trong quy định về sản xuất giống cá tra.
Đề tài đã thực hiện
thí nghiệm cảm nhiễm cho 100 gia đình G4 và 20 gia đình nhóm tự nhiên với tỷ lệ
chết cuối thí nghiệm đến 97,5%, sau 23 ngày thực hiện cảm nhiễm theo phương
pháp cohabitant có bổ sung thêm vi khuẩn vào bể thí nghiệm. Hệ số di truyền ước
tính cho tính trạng kháng bệnh gan thận mủ: (i) đối với tính trạng sống/chết, đạt
0,02 – 0,06 tại ngưỡng chết 97,5%, đạt h2 = 0,27-0,29 tại ngưỡng chết 85% và h2
= 0,30-0,42 tại ngưỡng chết 50%; (ii) cho tính trạng thời gian sống đạt tương ứng
0,48, 0,50 và 0,45 tại các ngưỡng chết lần lượt 50%, 85% và 97,5%. Tương quan
di truyền giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng dao động từ
0,03 – 0,25, tuy nhiên sai số cũng cao với đa số đều khác “không” không có ý
nghĩa thống kê, cho thấy khi cải thiện tính trạng tăng trưởng thì sẽ không có ảnh
hưởng tiêu cực đến tính trạng kháng bệnh. Hiệu quả chọn lọc khi so sánh với đàn
tự nhiên (theo EBV) đạt từ 1,6% tại thời điểm cá ngưng chết
(Nguồn: Thư viện Bộ Nông nghiệp và
PTNT - DT20247728-29/GGN24-08-125)