Tên đề tài: Nghiên cứu xây dựng gói kỹ thuật canh tác tiên tiến trong sản xuất lúa tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Thuộc Chương trình
phát triển sản phẩm Quốc gia đến năm 2020
Tổ
chức chủ trì: Viện
Lúa Đồng bằng sông Cửu Long
Cơ
quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Chủ
nhiệm đề tài: TS.
Trần Ngọc Thạch
Các
cá nhân tham gia đề tài: TS. Trịnh Quang Khương; TS. Nguyễn
Thị Phong Lan; TS. Dương Hoàng Sơn; TS. Nguyễn Kim Thu; ThS. Trịnh Thanh Thảo;
ThS. Lê Ngọc Phương; ThS. Trương Thị Kiều Liên; ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hân; TS.
Nguyễn Thúy Kiều Tiên
Thời
gian thực hiện: 2016-2020
Kinh
phí thực hiện: 10.000 triệu đồng
Cấp
phê duyệt: Quyết định số 1762/QĐ-BNN-KHCN ngày 26
tháng 04 năm 2021 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Ngày
nghiệm thu: ngày 24 tháng 10 năm 2021 tại Hà Nội
Kết
quả nghiên cứu:
Đề
tài đã hoàn thành 01 quy trình kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến theo Quyết định
số 155/ QĐ-TTCG-VP ngày 22/12/2020 của Cục Trồng trọt. Xây dựng 09 mô hình ứng
dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến, lượng giống giảm tương đương 50% so với trước
đây. Mô hình ứng dụng gói kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến đã giảm được 80 kg
lúa giống, giảm 18-20%N, 20-43% P2O5 và 25-66% K2O, giảm 3-6 lần phun thuốc bảo
vệ thực vật (tương đương 30-50%) so với canh tác truyền thống của nông dân. Tưới
nước tiết kiệm được bơm tưới 2-4 lần tương đương 30-35% trong vụ đông xuân, vụ hè
thu tiết kiệm được 300.000đ/ha so với tập quán canh tác truyền thống.
Mô
hình canh tác tiên tiến có tỷ lệ rụng ở thời điểm thu hoạch bằng máy gặt đập
liên hợp (0,24%) thấp hơn so với canh tác của nông dân (0,4%). Thất thoát khi
thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp ở mô hình canh tác tiên tiến là 1,46% thấp
hơn canh tác của nông dân (1,97%). Trong mô hình canh tác tiên tiến cho thấy
máy gặt đập liên hợp cắt giữa thân lúa có tỷ lệ thất thoát thấp nhất 0,87% so với
cắt sát gốc 1,56% và cắt phần bông lúa 1,97%. Tốc độ phát thải khí CH4
và N2O sau khi thu hoạch lúa 1 tuần ở cả 3 vụ canh tác đều thấp hơn
tốc độ phát thải khí CH4 và N2O trung bình trong suốt thời
gian canh tác lúa trên cả hai mô hình. Các giá trị này lần lượt là 92,8-94,8%
và 66,5-69,1% vụ đông xuân; 4,10-55,2% và 10,8-15,1% vụ hè thu; 91,6-96,8% và
7,63% vụ thu đông.
(Nguồn: Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT- DT20226225-26/GGN
21-12-072)